Lá Bài Thứ XII

Chương 5



Sau hai mươi lăm phút dài như vô tận, Sachs và Sellito về đến văn phòng của Rhyme, đi theo là một cảnh sát tuần tra trẻ, tóc vàng tên là Pulaski.

Sellito giải thích rằng anh ta đã yêu cầu chàng trai trẻ mang bằng chứng về cho Rhyme và làm cộng tác cho cuộc điều tra. Rõ ràng là một tân binh, anh ta có chữ “hăng hái” trên cái trán nhẵn thín của mình. Anh ta hẳn là đã được nói vắn tắt về tình trạng của nhà tội phạm học, thành ra đã lờ đi một cách thái quá sự thật là Rhyme bị liệt. Rhyme ghét những phản ứng giả tạo như vậy. Anh cảm thấy thích cái cách xử sự thẳng đuột của Lakeesha hơn.

Chỉ là, bạn biết đấy, chán chết…

Hai viên thanh tra cảnh sát chào những cô bé.

Pulaski nhìn chúng một lượt đầy cảm thông và hỏi thăm bằng một giọng đầy thân thiện với lũ trẻ. Rhyme thấy được vết hằn của chiếc nhẫn cưới trên ngón tay anh ta và suy đoán một cuộc hôn nhân từ thời học sinh trung học; chỉ khi đã có con của riêng mình thì mới có ánh mắt nhìn như vậy.

Lakeesha đáp lại câu hỏi: “Phá phách là kiểu của tôi. Thật khó chịu… Một vài kẻ khốn nạn gây lộn với cô bạn của tôi. Anh nghĩ sao chứ?”.

Geneva thì nói cô vẫn ổn.

“Cô biết là cháu đang ở cùng một người họ hàng, đúng không?”, Sachs hỏi.

“Bác của cháu, ông ấy sẽ ở nhà cháu đến khi bố mẹ cháu trở về từ London.”

Rhyme bất chợt nhìn vào Lon Sellito. Có gì đó không đúng. Anh ta đã thay đổi một cách đáng kinh ngạc trong hai tiếng qua. Thái độ vui vẻ đã biến mất. Đôi mắt anh ta ánh lên nỗi sợ hãi và có vẻ bồn chồn. Rhyme cũng để ý thấy những ngón tay của anh ta liên tục chà vào cùng một vị trí trên má. Anh ta đã chà xát nó đến nỗi đỏ ửng lên.

“Bị mấy viên đạn làm giật mình à?”, Rhyme hỏi, nhớ lại rằng viên cảnh sát này đã đứng ngay cạnh người thủ thư khi hung thủ bắn ông ấy. Có lẽ Sellito đã bị một mảnh vỡ của viên đạn văng vào hoặc có thể là một mẩu đá nếu như viên đạn đi xuyên qua người Barry và bắn trúng vào tòa nhà.

“Gì cơ?” Sellito chợt nhận ra mình đã chà ngón tay lên da và buông tay xuống. Anh nói bằng một giọng nhỏ, để cho những cô bé không nghe thấy: “Tôi đã ở khá gần nạn nhân. Bị một chút máu văng vào người. Chỉ có thế thôi. Chứ không sao cả”.

Nhưng chỉ một chút xíu sau đó anh lại vô thức đưa tay lên cọ má mình.

Điệu bộ đó khiến Rhyme liên tưởng đến Sachs, bởi cô có thói quen gãi đầu và nhay nhay móng tay mình. Sự thôi thúc bất chợt, bằng một cách nào đó liên quan tới nỗ lực, khát vọng của cô, sự xáo động không thể định nghĩa được bên trong hầu hết những người cảnh sát. Các cảnh sát thường làm tổn thương chính mình theo hàng trăm cách khác nhau. Và sự nguy hại thì có từ những hành động nhỏ như kiểu của Sachs, cho đến những trường hợp phá hỏng hạnh phúc gia đình và tâm hồn của những đứa trẻ với những từ ngữ tàn nhẫn, cho đến những việc như ngậm miệng quanh cái nòng sặc mùi khói của chính khẩu súng mình được phát. Dù sao thì anh chưa bao giờ thấy một điều như thế này ở Lon Sellito.

Geneva hỏi Sachs: “Không có nhầm lẫn gì hả cô?”.

“Nhầm lẫn?”

“Về tiến sĩ Barry.”

“Cô rất tiếc, không. Ông ấy chết rồi.”

Cô bé đứng im bất động. Rhyme có thể cảm thấy nỗi đau của lúc này.

Và cả sự tức giận nữa. Đôi mắt của cô bé là hai chấm đen đầy giận dữ. Rồi cô nhìn vào đồng hồ của mình, nói với Rhyme: “Những bài kiểm tra mà cháu nói đến thì sao?”.

“Ừm, hãy trả lời một số câu hỏi trước rồi chúng ta sẽ xem xét điều đó sau, Sachs?”

Với những vật chứng đã được bày ra trên chiếc bàn khám nghiệm và một bản bảo đảm tính pháp lý cho các bằng chứng đã được hoàn thành, Sachs kéo ghế xuống ngồi cạnh Rhyme và bắt đầu phỏng vấn hai cô bé. Cô hỏi Geneva chính xác những gì đã xảy ra. Cô bé giải thích rằng mình đang tìm một bài báo trong một tạp chí cũ khi hắn bước vào thư viện. Cô đã nghe thấy những tiếng chân ngập ngừng chậm rãi. Rồi một tiếng cười. Tiếng của người đàn ông kết thúc cuộc hội thoại và tiếng gập của một chiếc điện thoại.

Cô bé nheo mắt. “À, những gì cô chú có thể làm là kiểm tra tất cả các công ty viễn thông trong thành phố. Để xem những ai đang nói chuyện điện thoại lúc đó.” Rhyme đáp lại bằng một tiếng cười. “Đó là một ý kiến hay. Nhưng thực tế là ở bất cứ một thời điểm xác định nào tại Manhattan có khoảng năm mươi ngàn cuộc gọi được thực hiện hoặc đang được kết nối. Bên cạnh đó, chú không dám chắc rằng liệu có phải hắn đang gọi điện hay không.”

“Ý chú là hắn giả vờ á? Làm sao chú biết được điều đó?” Lakeesha hỏi, lén lút nhét hai thanh kẹo cao su vào miệng.

“Chú không biết điều đó. Chú nghi ngờ điều đó. Cũng như tiếng cười. Có nhiều khả năng hắn làm vậy để khiến Geneva mất cảnh giác. Ta sẽ thường không để ý đến những người đang nói chuyện điện thoại. Và hiếm khi ta nghĩ rằng đó sẽ là một mối đe dọa.”

Geneva gật gật đầu. “Vâng. Đúng thế! Lúc đầu cháu đã cảm thấy sợ hãi khi hắn bước vào thư viện. Nhưng khi cháu nghe tiếng hắn nói chuyện điện thoại, thế là, cháu đã nghĩ thật bất lịch sự khi nói chuyện điện thoại ở trong thư viện nhưng cháu cũng không cảm thấy sợ hãi nữa.”

“Rồi sau đó chuyện gì xảy ra?”, Sachs hỏi.

Cô bé giải thích rằng mình đã nghe thấy tiếng “cách” thứ hai – và nghĩ rằng âm thanh ấy nghe giống như tiếng một khẩu súng – rồi cô nhìn thấy một người đàn ông đội mũ trùm kín mặt. Cô bé sau đó kể lại việc mình đã tháo quần áo của một ma nơ canh và mặc cho nó áo và mũ của mình như thế nào.

“Tuyệt!”, Lakeesha chìa tay ra một cách tự hào. “Người chị em của cháu ở đây, thật là quá thông minh!”

Cô bé chắc chắn là như vậy, Rhyme nghĩ trong đầu. “Cháu đã tr trong những chồng sách cho đến khi hắn tiến lại chiếc máy đọc vi phim và rồi chạy về phía cửa thoát hiểm.”

“Cháu không nhìn thấy gì nữa về hắn à?”, Sachs hỏi.

“Không.”

“Chiếc mũ trùm màu gì?”

“Tối màu. Cháu không biết chính xác nữa.”

“Còn quần áo thì sao?”

“Thực sự cháu không nhìn thấy gì khác nữa. Cháu không nhớ những điều đó. Cháu đã khá là sợ hãi.”

“Cô biết cháu đã sợ.” Sachs nói. “Khi cháu đang nấp ở sau những giá sách, cháu có quan sát hướng đi của hắn không? Để có thể biết khi nào thì bỏ chạy?”

Geneva cau mày một chút. “À, vâng, đúng thế. Cháu đã quan sát hắn. Cháu quên mất điều đó. Cháu quan sát qua gầm kệ sách để có thể chạy khi hắn đến gần ghế cháu ngồi.”

“Vậy có thể cháu sẽ nhìn thấy gì khác nữa ở hắn?”

“À, cô biết đấy, cháu có. Cháu nghĩ rằng hắn đi đôi giày màu nâu. Đúng rồi, màu nâu. Nâu sáng, chứ không phải đậm tối.”

“Được rồi. Còn quần thì sao?”

“Tối màu. Cháu khá chắc chắn. Nhưng đó là tất cả những gì cháu có thể thấy, chỉ gấu quần mà thôi.”

“Cháu có ngửi thấy mùi gì không?”

“Không… Khoan đã. Hình như là cháu có. Một mùi gì đó ngọt, giống như những bông hoa.”

“Và…?”

“Hắn bước tới cái ghế và cháu nghe thấy một tiếng nứt rồi vài tiếng động ầm ầm nữa. Có cái gì đó bị đập nát.”

“Chiếc máy đọc vi phim”, Sachs giải thích. “Hắn đã đập nát nó.”

“Sau đó cháu cố hết sức chạy thật nhanh, về phía cửa thoát hiểm. Cháu chạy xuống cầu thang và khi ra tới phố gặp Keesh và chúng cháu bắt đầu chạy tiếp. Nhưng cháu nghĩ rằng có thể hắn sẽ tiếp tục làm hại một ai đó khác. Do đó, cháu quay lại và…”, cô bé nhìn về phía Pulaski, “Bọn em nhìn thấy anh”.

Sachs hỏi Lakeesha: “Cháu có nhìn thấy kẻ tấn công không?”.

“Chẳng có gì cả. Cháu chỉ đang đứng chơi và rồi Gen đến, chạy rất nhanh và lôi tha lôi thôi, chú hiểu cháugì không? Cháu chả nhìn thấy gì cả.”

Rhyme hỏi Sellito: “Hung thủ giết Barry bởi ông ấy là một nhân chứng – vậy ông ấy thấy gì?”.

“Ông ấy nói không thấy điều gì khác thường, ông ấy đưa cho tôi danh sách tên những nhân viên nam da trắng của thư viện trong trường hợp hung thủ là một trong số họ. Có hai người nhưng họ đã được kiểm tra và có chứng cứ ngoại phạm. Một người thì đang đưa con gái đến trường và một người thì ở văn phòng chính có mọi người xung quanh, vào thời điểm vụ việc xảy ra.”

“Vậy thì hung thủ là một kẻ cơ hội”, Sachs trầm ngâm. “Nhìn thấy cô bé đi vào và rình rập đằng sau.”

“Bảo tàng?” Rhyme nói: “Một sự lựa chọn kỳ cục”.

Sellito hỏi hai cô gái: “Các cháu có thấy ai đi theo mình ngày hôm nay không?”.

Lakeesha trả lời: “Chúng cháu xuống từ trên tàu C trong giờ cao điểm. Tuyến Đại lộ 8… đông đúc và bẩn thỉu. Chẳng thấy ai có biểu hiện kỳ lạ hết. Cậu thì sao?”.

Geneva lắc lắc đầu.

“Thế còn bây giờ thì sao? Có ai đang quấy rối, có thù hằn gì với cháu không? Đánh cháu chẳng hạn?”

Cả hai cô bé chẳng nghĩ được một ai có vẻ như là mối đe dọa với họ. Ngượng ngùng, Geneva nói: “Không có nhiều người theo đuổi xung quanh cháu.

Họ phải rình rập những cô gái trông thu hút hơn. Nuột hơn”.

“Nuột?”

“Ý của cậu ấy là xinh xắn, gợi cảm”, Lakeesha giải thích, người rõ ràng là hình mẫu điển hình cho những cô gái gợi cảm và xinh xắn. Cô cau mày và liếc nhìn Geneva. “Tại sao cậu phải lên đó, nhóc? Đừng nói những thứ vớ vẩn về mình đấy.”

Sachs nhìn về phía Rhyme, anh cau mày. “Anh nghĩ sao?”

“Có gì đó không đúng. Hãy xem qua một lượt chứng cứ thu thập được trong khi Geneva ở đây. Có thể sẽ có gì đó mà cô bé giải thích được.”

Cô bé lắc lắc đầu. “Còn bài kiểm tra thì sao?” Cô giơ chiếc đồng hồ lên.

“Sẽ không lâu đâu mà.” Rhyme nói.

Geneva nhìn bạn mình. “Cậu có thể đến phòng học”.

“Tớ sẽ ở lại đây với cậu. Tớ không thể ngồi hàng tiếng đồng hồ ở trong lớp với đống bài kiểm tra mà tâm trí thì lo lắng cho cậu và tất cả mọi việc.”

Geneva cười nhăn nhở. “Còn lâu, nhóc.” Cô hỏi Rhyme: “Chú không cần bạn ấy, đúng không ạ?”.

Anh nhìn Sachs, cô đang lắc đầu. Sellito ghi lại địa chỉ và số điện thoại của cô bé. “Chúng tôi sẽ gọi cháu nếu như có gì cần hỏi.”

“Cháu vẫn qua các bài kiểm tra, cô bé.” Cô nói. “Quên nó đi và về nhà nghỉ ngơi.”

“Tớ sẽ gặp lại cậu ở trường.” Geneva nói một cách kiên quyết. “Cậu sẽ đến trường chứ?” Rồi nhướn mày. “Hứa chứ?”

Hai tiếng nhóp nhép kẹo cao su lớn. Thở dài một tiếng. “Hứa”. Lưỡng lự một chút tại cửa, cô bé quay lại, nói với Rhyme: “À, thưa chú, sẽ còn bao lâu nữa thì chú có thể bước ra khỏi cái xe lăn này?”.

Không một ai nói gì để lấp đi cái phút đầy khó xử ấy. Khó xử với tất cả mọi người nhưng không với Rhyme, anh cho là như vậy.

“Có lẽ sẽ là một khoảng thời gian dài”, anh đáp lại cô gái.

“Ồ, thế thì thật khó chịu chết!”

“Ừ”, Rhyme nói. “Đôi lúc thật chán chết.”

Cô quay đầu bước về phía sảnh lớn, theo hướng cửa trước. Họ nghe thấy: “Chết tiệt, phải chú ý chứ, ông chú”. Tiếng cửa ngoài sập mạnh.

Mel Cooper bước vào phòng, quay lại nhìn cái chỗ mà anh suýt nữa bị đè bẹp bởi một cô gái trẻ nặng hơn anh đến hai mươi lăm kilogram. “Được thôi”, anh tự nói với mình. “Tôi không định hỏi.” Anh kéo chiếc áo khoác gió màu xanh lá cây ra và gật đầu chào mọi người.

Người đàn ông mảnh khảnh, hói đầu đã từng làm việc với vai trò một nhà khoa học hình sự pháp y cho Sở cảnh sát New York ở khu phía bắc một vài năm trước đây khi anh nói với Rhyme, lúc đó đang là chỉ huy đơn vị Khám nghiệm pháp y của Sở cảnh sát New York, một cách lịch sự nhã nhặn nhưng rất dứt khoát rằng, một trong những phân tích của anh là sai. Rhyme tôn trọng những người biết chỉ ra khuyết điểm hơn nhiều những kẻ nịnh bợ – tất nhiên, trong trường hợp họ nói đúng, như Cooper đã từng làm được. Rhyme ngay lập tức đã bắt đầu một chiến dịch để kéo anh ta về New York – một thử thách khó khăn mà cuối cùng anh cũng đã thành công.

Cooper sinh ra để làm một nhà khoa học nhưng quan trọng hơn cả là để làm một nhà khoa học pháp y, một ngành hoàn toàn khác biệt. Người ta thường nghĩ rằng “pháp y” liên quan tới công việc ở hiện trường vụ án, nhưng thực tế, từ này có nghĩa là mọi mặt của những vấn đề nóng bỏng gây trước tòa và luật pháp. Để là một nhà tội phạm học thành công ta phải dịch được những thông tin trần trụi thành một dạng thể mà nó hữu ích cho các công tố viên. Lấy ví dụ, việc xác định một cách đơn giản sự hiện diện của các vật chất có trong cây mã tiền ở một nơi được nghi ngờ là hiện trường vụ án vẫn là chưa đủ – các vật chất này đã được sử dụng rất nhiều trong các mục đích y tế vô hại như để chữa bệnh viêm tai. Một nhà khoa học pháp y thực sự như Mel Cooper có thể biết ngay lập tức được những vật chất như vậy sẽ tiết ra chất độc chết người strychine.

Cooper có vẻ bề ngoài của một con nghiện trò chơi máy tính. Anh sống với mẹ của mình, bà vẫn mặc những chiếc áo sơ mi kẻ ca rô rực rỡ và trông giống Woody Allen[1]. Vẻ bề ngoài lại đánh lừa tất cả. Người bạn gái từ bao lâu nay của Cooper là một cô gái tóc vàng cao và xinh đẹp dịu dàng. Họ có thể cùng nhau lướt qua sàn của một hội trường trên nền hợp xướng trong một cuộc thi khiêu vũ, mà trong đó họ thường là người chiến thắng. Mới đây nhất, họ đã tham gia cuộc thi bắn đĩa bay và cuộc thi nấu rượu vang nho (mà trong đó Cooper đã phải vận dụng một cách tỉ mỉ những nguyên tắc – nguyên lý hóa học và vật lý).

[1] Woody Allen: một diễn viên, đạo diễn, biên kịch nổi tiếng người Mỹ

Rhyme tóm tắt vụ án cho anh và họ quay sang làm việc với các chứng cứ. Rhyme nói: “Hãy nhìn vào cái gói”.

Trong khi đeo vào tay những chiếc găng cao su, Cooper nhìn về phía Sachs, cô đang chỉ ra những chiếc túi giấy có chứa gói đồ của hung thủ. Anh mở nó ra trên một tờ giấy lớn – để có thể tìm ra dấu vết xung quanh- và lấy ra những đồ vật trong đó. Đó là một cái túi nhựa mỏng. Không có logo cửa hàng nào được in lên đó, chỉ có một hình mặt cười màu vàng lớn. Người chuyên gia mở chiếc túi và dừng lại. Anh nói: “Tôi ngửi thấy mùi gì đó…”. Hít một hơi thật sâu. “Có mùi hoa. Cái gì thế?” Cooper đưa cái túi lên cho Rhyme và anh ngửi nó. Có mùi giống với mùi nước hoa, nhưng anh không thể nhận ra đó là mùi gì. “Geneva?”

“Dạ?”

“Có phải đây là mùi mà cháu đã ngửi thấy trên thư viện?”

Cô bé khịt khịt mũi. “Vâng. Đúng là nó.”

Sachs nói: “Hoa nhài. Tôi nghĩ đó là hương hoa nhài”.

“Trên bảng biểu đồ”, Rhyme nói.

“Bảng biểu đồ nào?”, Cooper hỏi, nhìn xung quanh.

Trong mỗi một vụ án của mình, Rhyme đều có một biểu đồ trên tấm bảng trắng ghi chép các bằng chứng được tìm thấy tạhiện trường và hồ sơ thông tin về các đối tượng. “Bước đầu tiên”, anh đề nghị. “Và chúng ta cần phải gọi hắn là gì đó. Một ai đó cho tôi một cái tên xem.”

Không ai đưa ra một sáng kiến nào cả.

Rhyme nói: “Không có thời gian để sáng tạo. Hôm nay là ngày mùng 9 tháng 10, đúng không. Mười/chín. Vậy hắn sẽ là Đối tượng 109. Thom! Chúng tôi cần ngòi bút tài hoa của cậu”.

“Không cần phải thêm bơ thêm đường như vậy”, người phụ tá nói và bước vào phòng với một ấm cà phê khác.

“Đối tượng 109. Biểu đồ chứng cứ và hồ sơ. Hắn là nam da trắng. Chiều cao?”

Geneva trả lời: “Cháu không biết. Với cháu thì ai cũng cao. Một mét tám, cháu đoán vậy”.

“Có vẻ như cháu cũng nhanh mắt quan sát. Chúng ta sẽ theo lời cháu. Cân nặng?”

“Không quá to hay nhỏ.” Cô bé bỗng im lặng một chút, vẻ băn khoăn. “Khoảng cân nặng của tiến sĩ Barry.”

Sellito nói: “Như vậy là khoảng chừng tám mươi hai kilogram”.

“Tuổi?”

“Cháu không biết. Cháu không thể nhìn thấy mặt hắn.”

“Tiếng nói?”

”Cháu đã không chú tâm lắm. Tầm trung, cháu đoán vậy.”

Rhyme tiếp tục: “Và đôi giày màu nâu sáng, quần tối màu, mũ trùm mặt tối màu. Cái gói trong túi có mùi hoa nhài. Hắn cũng có mùi như vậy. Có thể là xà bông hoặc nước tắm”.

“Cái gói?” Thom hỏi. “Ý anh là sao?”

“Cái gói mà hắn đựng đồ định dùng để hiếp dâm ý ạ.” Geneva nói. Liếc nhìn Rhyme. “Chú không cần phải nói tránh bất cứ điều gì cho cháu. Nếu như đó là điều chú đang làm.”

“Đủ rồi.” Rhyme gật đầu với cô bé. “Hãy tiếp tục nào.” Anh nhận thấy mặt Sachs tối sầm lại khi cô thấy Cooper nhấc chiếc túi lên.

“Có chuyện gì vậy?”

“Cái mặt cười. Trên một túi có đựng đồ để hiếp dâm. Cái thể loại chết tiệt bệnh hoạn nào làm như vậy?”

Cơn giận dữ của cô làm anh lúng túng. “Em nhận ra rằng tin tốt là hắn đã dùng nó, đúng không, Sachs?”

“Tin tốt?

“Nó hạn chế số lượng các cửa hàng chúng ta cần phải tìm kiếm. Không dễ dàng như tìm kiếm thông tin về một chiếc túi với một logo được thiết kế riêng biệt nhưng còn hơn là một chiếc túi trắng trơn không hình gì cả.”

“Em cũng nghĩ vậy”, cô nói, nhăn nhó. “Nhưng vẫn…”

Tay đeo găng cao su mỏng, Mel Cooper nhìn vào chiếc túi. Anh lấy ra lá bài tarot trước tiên. Nó có hình một người đàn ông đang treo ngược chân trên một chiếc giá treo cổ. Một chùm sáng phát ra từ đầu của nhân vật đó. Khuôn mặt thản nhiên một cách kỳ lạ. Nhìn người đàn ông này chẳng thấy có chút đau đớn nào cả. Ở bên trên là con số La Mã, XII.

“Nó có ý nghĩa gì với cháu không?”, Rhyme hỏi Geneva.

Cô bé lắc đầu.

Cooper lẩm bẩm: “Một kiểu lễ nghi hay tôn giáo chăng?”.

Sachs nói: “Tôi có ý này”. Cô rút chiếc điện thoại của mình ra, gọi cho ai đó. Rhyme đoán rằng người mà cô đang nói chuyện sẽ sớm có mặt ở đây. “Em gọi cho một chuyên gia – về quân bài.”

“Tốt.”

Cooper kiểm tra dấu vân tay trên lá bài và không phát hiện được chút gì. Cũng không có giấu vết nào hữu ích cả.

“Còn thứ nào khác trong túi nữa?”, Rhyme hỏi.

“Được rồi”, nhà khoa học hình sự pháp y trả lời: “Chúng ta có một cuộn băng dính mới nguyên, một con dao rọc giấy, vài cái bao cao su Trojan. Không thứ nào có thể lần tìm dấu vết được. Và… Đây rồi!”. Cooper giơ lên một mẩu giấy. “Một tấm hóa đơn.”

Rhyme lái chiếc xe lăn tới gần hơn và nhìn nó. Không có tên của cửa hàng; tấm hóa đơn được in ra từ một chiếc máy thanh toán kiểu cũ. Mực đã mờ.

“Không có nhiều thông tin từ nó lắm”, Pulaski nói, rồi có vẻ như đang nghĩ rằng mình đáng lẽ không nên nói gì.

Cậu ta đang làm gì ở đây nhỉ? Rhyme tự hỏi.

À, đúng rồi. Giúp Sellito.

“Rất tiếc, tôi nghĩ khác”, Rhyme nói một cách thẳng thừng- ‘‘Nó cho chúng ta rất nhiều thông tin. Hắn đã mua tất cả các đồ này từ trong cùng một cửa hàng – chúng ta có thể so sánh giá trên món đồ với cái hóa đơn – chà, cùng với một thứ gì đó khác không có ở đây mà hắn mua với năm đô chín mươi lăm xu. Có thể là bộ bài tarot. Như vậy là chúng ta có thông tin về một cửa hàng bán c băng dính, dao rọc giấy và bao cao su. Có thể là một cửa hàng tạp hóa hoặc thậm chí là một hàng dược phẩm. Chúng ta biết đó không phải là một siêu thị lớn vì không có logo cửa hàng trên hóa đơn và chiếc túi. Và nó là một cửa hàng nhỏ bởi nó chỉ có ngăn kéo đựng tiền, chứ không phải một quầy thanh toán được quản lý bằng máy tính. Không đề cập đến vấn đề giá rẻ. Và mức thuế ghi trên hóa đơn cho chúng ta biết cái cửa hàng này năm ở…” Anh nheo mắt khi so sánh tổng tiền trên hóa đơn với số tiền thuế. “Chết tiệt, ai giỏi toán nhỉ? Tỷ lệ phần trăm là bao nhiêu đây?”

Cooper nói: “Tôi có máy tính đây”.

Geneva nhìn vào tấm hóa đơn. “8.625%.”

“Làm sao cháu biết điều đó?”, Sachs hỏi.

“Cháu giống như một chiếc máy tính thôi.” Cô bé nói.

Rhyme nhắc lại: “8.625%. Đó là sự liên hệ giữa tiểu bang New York và mức thuế mua hàng của thành phố. Khiến thông tin của cửa hàng này nằm ở một trong số năm khu của tiểu bang”. Anh nhìn Pulaski. “Vậy, anh cảnh sát tuần tra, vẫn cho rằng nó không thực sự hé lộ nhiều thông tin chứ?”

“Tôi đã hiểu, thưa ngài.”

“Tôi không còn phục vụ trong lực lượng nữa. Nói ‘thưa ngài’ là không cần thiết. Được rồi. In mọi thứ ra và hãy xem chúng ta có thể tìm thấy gì.”

“Tôi á?” Chàng tân binh hỏi một cách không dám chắc.

“Không. Họ.”

Cooper và Sachs sử dụng các kỹ thuật khác nhau để lấy các dấu tay trên các vật chứng: bột huỳnh quang, tia Adrox và hương liệu có mùi keo siêu dính trên các bề mặt phẳng trơn; hơi iode và ninhydrin trên các bề mặt có nhiều lỗ nhỏ li ti, một vài trong số đó tự làm nổi dấu tay; trong khi những cái khác thì hiện kết quả dưới ánh sáng của đèn chiếu chuyên dụng.

Ngẩng lên nhìn đội phá án qua cặp kính lồi màu da cam, Cooper báo cáo: “Có các dấu tay trên tờ hóa đơn, và các dấu tay trên các đồ vật. Tất cả đều là một. Chỉ có một vấn đề là, các dấu tay nhỏ, quá nhỏ để có thể là dấu tay của một người đàn ông cao gần mét tám. Đây là dấu tay của một người phụ nữ mảnh mai nhỏ nhắn, hoặc của một nữ sinh tuổi vị thành niên, người bán hàng, tôi sẽ nói như vậy. Tôi cũng nhìn thấy vết lau. Tôi cho rằng nghi phạm đã lau sạch dấu tay của hắn rồi”.

Trong khi rất khó để xóa đi dấu vết các chất dầu của bàn tay, các dấu tay có thể bị bay biến một cách dễ dàng sau khi được chùi sạch.

“Kiểm traì chúng ta có với IAFIS.”

Cooper lấy những mẫu dấu tay và đưa lên máy scan. Mười phút sau, hệ thống nhận dạng vân tay tự động của FBI xác nhận rằng dấu vân tay không thuộc về một ai có hồ sơ trong cơ sở dữ liệu chính của thành phố, tiểu bang và liên bang. Cooper đồng thời cũng gửi chúng tới một vài cơ sở dữ liệu địa phương mà không kết nối với hệ thống của FBI.

“Dấu giày”, Rhyme nói lớn.

Sachs in ra các tấm phim âm bản. Các dấu giày đã sờn, vậy chiếc giày đã cũ.

“Cỡ mười một”, Cooper nói.

Có một sự không tương quan giữa kích thước bàn chân và cấu trúc xương cũng như chiều cao, dù nó vẫn có thể là một bằng chứng chưa được thuyết phục trước tòa. Kích cỡ bàn chân cho thấy Geneva đã khá đúng trong việc ước lượng rằng nghi phạm cao khoảng một mét tám.

“Còn nhãn hiệu thì sao?”

Cooper kiểm tra bức ảnh qua hệ thống dữ liệu về dấu giày và đã tìm ra. “Giày hiệu Bass, kiểu dành cho người đi bộ. Ít nhất đã được ba năm rồi. Họ ngừng sản xuất kiểu này từ ba năm trước.”

Rhyme nói. “Vết mòn trên giày cho chúng ta biết bàn chân phải của hắn hơi hướng ra ngoài một chút, nhưng không có dấu hiệu bước đi khập khiễng hoặc cà nhắc và không có biến dạng về xương chân chỗ ngón cái, móng mọc trong hoặc các vấn đề về chân khác[2]”

[2] Nguyên văn tiếng Pháp: Malades dé pieds.

“Tôi không biết là anh nói được tiếng Pháp đấy, Lincoln”, Cooper nói.

Chỉ trong trường hợp mà nó có ích cho cuộc điều tra. Anh biết cụm từ đặc biệt này khi đang điều tra vụ án Mất tích chiếc giày bên phải và đã có cơ hội nói chuyện hàng chục lần với một cảnh sát người Pháp. “Tình trạng dấu vết thế nào?”

Cooper đang mải mê nghiền ngẫm chiếc túi đựng vật chứng thu thập được có chứa những mẩu vụn nhỏ xíu dính chặt với dụng cụ thu thập dấu vết của Sachs, đó là một con lăn dính, giống như cái lăn dùng để hút lông chó mèo và sợi vải. Những con lăn đã thay thế chiếc máy hút bụi chân không DustBuster như một sự lựa chọn dành riêng cho sợi vải, lông tóc và chất lắng.

Đeo chiếc kính lúp vào một lần nữa, nhà khoa học hình sự sử dụng những chiếc nhíp mảnh để nhặt các chất liệu lên. Anh chuẩn bị một tấm nhựa trong và đặt nó bên dưới kính hiển vi, rồi điều chỉnh độ phóng và tiêu điểm. Đồng thời, hình ảnh hiện ra một vài chiếc máy tính màn hình phẳng ở quanh căn phòng. Rhyme xoay chiếc xe lăn và kiểm tra thật kỹ những bức ảnh. Anh có thể nhìn thấy những hạt rất nhỏ như là bụi, một vài sợi vải, những vật thể phồng lên màu trắng, và những thứ mà nhìn giống như những chiếc vỏ côn trùng được lột ra – “bộ xương ngoài”. Khi Cooper di chuyển bàn soi của chiếc kính hiển vi, một vài hạt nhỏ từ chất liệu vải mềm, mềm xốp như bọt biển có màu trắng ngà hiện ra.

“Những thứ này đến từ đâu?”

Sachs xem xét. “Có hai nguồn: sàn nhà gần chiếc bàn mà Geneva ngồi và bên cạnh chiếc thùng rác lớn mà hắn đứng khi bắn ông Barry.”

Lần theo dấu vết từ những vật chứng ở những nơi công cộng thường không có tác dụng bởi có quá nhiều khả năng những người lạ không liên quan để lại các dấu vết. Nhưng nếu như cùng một dấu vết được tìm thấy ở hai địa điểm tách biệt mà hung thủ có mặt cho thấy rõ ràng nó chắc chắn phải là dấu vết hắn để lại.

“Cảm ơn Chúa”, Rhyme lẩm bẩm: “vì sự thông minh trong việc tạo ra những chiếc giày có đế sâu”. Sachs và Thom liếc nhìn nhau.

“Không hiểu cái tâm trạng tốt của tôi à?” Rhyme hỏi, tiếp tục nhìn chằm chằm vào màn hình. “Đó có phải là lý do cho ánh mắt của hai người không? Đôi khi có thể tôi rất vui vẻ.”

“Cả năm được một lần”, người phụ tá lẩm bẩm.

“Một thành ngữ nữa, Lon. Cậu biết câu này không? Nào, bây giờ thì quay lại với các dấu vết. Chúng ta biết đó là dấu vết hắn để lại. Đó là cái gì? Và liệu nó có thể dẫn dắt chúng ta đến sào huyệt của hắn không?”

Các nhà khoa học pháp y đối mặt với những nhiệm vụ tạo thành hình kim tự tháp trong việc phân tích vật chứng. Công việc khởi đầu – và thường là công việc đơn giản dễ dàng nhất – là xác định một chất liệu (ví dụ như, tìm ra một vết loang màu nâu là máu và liệu nó là của người hay của động vật, hay một mẩu vật gì đó là một mảnh vỡ của viên đạn).

Nhiệm vụ thứ hai là phân loại các vật mẫu đó, như là, đặt nó vào một nhóm phân loại nhỏ hơn (ví dụ như xác định vết máu đó là máu nhóm O dương tính, hay là cái mảnh vỡ từ viên đạn đó là một viên đạn cỡ 38 ly). Biết được rằng một vật chứng nằm trong một nhóm riêng biệt sẽ có giá trị nhất định đối với cảnh sát và những công tố viên nếu như kẻ tình nghi có thể có liên quan đến vật chứng ở cùng một loại như thế – chiếc áo của hắn có vết máu nhóm O dương tính, và có một khẩu súng sử dụng đạn cỡ 38 ly – mặc dù những tình tiết có liên quan như vậy chưa thực sự có

Nhiệm vụ cuối cùng, và mục tiêu sau cùng của tất cả các nhà khoa học pháp y, đó là cá nhân hóa những bằng chứng – liên kết một cách không thể nghi ngờ được cái bằng chứng riêng biệt này với một địa điểm hay một con người duy nhất (mẫu DNA từ vết máu trên chiếc áo sơ mi của kẻ tình nghi khớp với máu của nạn nhân, viên đạn có những dấu vết riêng duy nhất mà chỉ có thể được tạo ra khi bắn bằng khẩu súng của hắn).

Đội phá án lúc này đang ở tầng thấp của chiếc kim tự tháp pháp y này. Ví dụ như những cái mẩu đó là một loại sợi vải, mà họ đã biết. Nhưng hàng ngàn loại sợi vải khác nhau được tạo ra trên nước Mỹ hằng năm và có hơn bảy ngàn loại màu được sử dụng để nhuộm chúng. Và cũng như thế, đội phá án có thể thu hẹp được phạm vi. Những phân tích của Cooper đã hé lộ ra rằng những mẩu vài được bỏ lại bởi tên giết người là loại từ thực vật tự nhiên – hơn là được làm từ động vật hay khoáng chất – và chúng dày.

“Tôi cá đó là dây thừng sợi bông”, Rhyme đưa ra suy đoán.

Cooper gật đầu khi anh đọc dữ liệu về các loại vải làm từ thực vật. “Đúng thế. Mặc dù, rất chung chung. Không có nhà sản xuất.”

Một sợi vải không có màu gì nhưng những mẩu vải khác có các vệt ố của một vật gì đó. Nó có màu nâu và Cooper nghĩ rằng đó có thể là vết máu. Một xét nghiệm với phenolphthalein dành cho những dấu vết được cho là vết máu đã xác định kết quả.

“Máu của hắn?”, Sellito băn khoăn.

“Ai biết?”, Cooper đáp lại, tiếp tục xét nghiệm mẫu vật. “Nhưng đó chắc chắn là của người. Với hai đầu bị xoắn chặt và đứt, tôi có thể suy luận rằng sợi thừng là dây dùng để thắt cổ. Chúng ta đã từng nhìn thấy trước đây. Nó có thể là một vũ khí giết người có chủ đích.”

Cái vật cứng hắn dùng có thể đơn giản với mục đích đánh ngất nạn nhân, hơn là được dùng để giết cô bé (Đánh một ai đó đến chết là một công việc khó khăn và sẽ gây ra một vụ lộn xộn). Hắn ta cũng có súng, nhưng nó sẽ phát ra tiếng quá to trong khi hắn muốn thực hiện vụ giết người một cách im lặng để còn trốn thoát. Một sợi thừng thắt cổ nạn nhân là lựa chọn hợp lý.

Geneva thở dài. “Chú Rhyme? Bài kiểm tra của cháu.”

“Bài kiểm tra?”

“Ở trường.”

“À, chắc chắn rồi. Đợi chú một phút… Tôi muốn biết cái vỏ lột ra này là của loại côn trùng hay bọ nào”, Rhyme

“Anh cảnh sát”, Sachs nói với Pulaski.

“Vâng, thưa b… Thanh tra?”

“Cậu có thể giúp chúng tôi một chút ở đây không?”

“Chắc chắn rồi.”

Cooper in ra một bức ảnh màu về mẩu xác và đưa nó cho anh lính trẻ. Sachs đưa anh ta ngồi xuống một chiếc máy tính và gõ lệnh để nhập vào kho dữ liệu côn trùng của sở – Sở cảnh sát New York là một trong số ít sở cảnh sát trên thế giới có không chỉ một thư viện chuyên sâu đầy đủ thông tin về côn trùng mà còn có cả một đội ngũ chuyên gia về côn trùng đang làm việc. Sau một chút tạm dừng, màn hình máy tính bắt đầu ngập đầy những bức ảnh nhỏ về các bộ phận côn trùng.

“Trời, có rất nhiều loại. Mọi người biết đấy, tôi thực sự chưa bao giờ làm cái công việc này trước đây.” Anh ta nheo mắt nhìn khi những tập tin lướt qua.

Sachs giấu một nụ cười. “Không hoàn toàn giống với CSI (Điều tra một hiện trường), đúng không?”, cô hỏi. “Hãy lướt chuột thật chậm rãi và tìm thứ mà cậu nghĩ rằng nó khớp. ‘Chậm – chắc’ là bí quyết.”

Rhyme nói: “Ngày càng có nhiều sai lầm trong các phân tích pháp y bởi vì tính vội vội vàng vàng của các kỹ thuật viên hơn bất cứ lý do nào khác”.

“Tôi không biết điều đó.”

Sachs nói: “Giờ thì cậu đã biết”.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.