Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles)

Chương 14: Chiếc mắt xích cuối cùng



Sự ra đi bất ngờ của Poirot khiến tất cả chúng tôi đều thắc mắc. Sáng chủ nhật trôi qua mà ông ta vẫn chưa trở về. Nhưng, vào khoảng mười lăm giờ, một tiếng còi xe to và dài bên ngoài thúc giục chúng tôi chạy đến bên cửa sổ, và chúng tôi thấy Poirot từ trên xe bước xuống, cùng với Japp và Summerhaye. Người đàn ông bé nhỏ đã thay đổi hoàn toàn. Trông ông rạng rỡ hẳn lên vì hài lòng. Ông kính cẩn nghiêng mình một cách quá đáng trước Mary Cavendish.

– Thưa bà, tôi xin phép được triệu tập một cuộc họp nhỏ ở phòng khách. Tất cả mọi người nhất thiết phải có mặt.

Mary mỉm cười buồn bã.

– Ông thừa biết, ông Poirot ạ, ông toàn quyền được hành động dưới mọi hình thức.

Vẫn tươi rói, Poirot đẩy chúng tôi vào phòng khách và kéo ghế cho chúng tôi.

– Cô Howard ạ, mời cô ngồi xuống đây. Cô Cynthia, chỗ này, xin cô. Ông Laurence. Bà Dorcas và Annie. Được rồi. Chúng ta chỉ còn phải đợi ông Inglethorp một lát thôi. Tôi đã viết cho ông ta mấy chữ.

Thế là cô Howard nhổm dậy.

– Nếu người đàn ông đó đặt chân vào nhà này thì tôi sẽ đi ngay.

– Không! Không!

Poirot đến bên cô và nói nhỏ. Cuối cùng cô Howard đồng ý ngồi xuống và một lát sau, Alfred Inglethorp hiện ra trên bậc thềm.

Mọi người đã có mặt đông đủ, Poirot đứng dậy và lịch sự chào mọi người.

– Thưa quý ông, quý bà, như tất cả mọi người đã biết, tôi được ông John Cavendish mời đến để làm sáng tỏ vụ án này. Tôi liền quan sát phòng ngủ của bà Inglethorp mà theo lời các bác sĩ, đã được khóa trái. Do vậy, nó còn nguyên trong tình trạng như lúc xảy ra thảm kịch. Thoạt tiên, tôi tìm thấy một mẩu vải xanh, thứ hai là một vết ẩm ướt trên tấm thảm, gần cửa sổ, thứ ba là một hộp bột brô-mua trống.

Hãy xem xét mẩu vải xanh đã. Tôi tìm thấy nó kẹt trong ổ khóa cửa ăn thông giữa phòng ngủ của bà Inglethorp và phòng của cô Cynthia. Tôi giao mẩu vải đó cho cảnh sát nhưng họ không mấy quan tâm đến nó. Họ không nhận ra xuất xứ của nó: một mảnh vải rách từ một bộ quần áo làm vườn màu xanh lá cây.

Một làn sóng kích động liền nổi lên trong phòng.

– Thế nhưng, ở Styles Court, chỉ có một người làm công việc vườn tược thôi: bà Cavendish. Vậy thì bà Cavendish phải là người vào phòng người chết bằng cánh cửa ăn thông sang phòng cô Cynthia.

– Nhưng cánh cửa đó bị khóa trái từ bên trong kia mà! – Tôi kêu lên.

– Phải, nhưng là khi tôi xem xét căn phòng cơ. Về vấn đề này thì chúng ta chỉ có sự khẳng định của bà Cavendish thôi, vì chính bà đã thử mở cánh cửa đó và sau đó tuyên bố rằng nó bị khóa. Trong sự hỗn loạn lúc bấy giờ, bà đã có thể cài then lại không mấy khó khăn. Tôi đã lợi dụng dịp may đầu tiên để kiểm tra lại sự phỏng đoán của mình. Thoạt tiên, mảnh vải phù hợp với một vệt rách ở áo của bà Cavendish. Sau đó, ở buổi hỏi cung, bà Cavendish khai rằng từ phòng mình bà đã nghe thấy tiếng chiếc bàn kê cạnh giường bà Inglethorp đổ xuống. Ngay khi có dịp, tôi đã kiểm tra lại sự chính xác của lời khai đó. Tôi để ông bạn Hastings ở bên cánh trái ngôi nhà, ngay trước cửa phòng bà Cavendish. Đích thân tôi cùng các viên cảnh sát đến phòng nạn nhân và tôi giả bộ lỡ tay xô đổ chiếc bàn nói trên. Ông Hastings khẳng định với tôi là không hề nghe thấy gì cả. Điều này càng xác định với tôi rằng bà Cavendish không khai đúng sự thật khi tuyên bố vào lúc thảm kịch xảy ra, bà đang thay quần áo trong phòng mình. Thật vậy, tôi tin chắc, thay vì ở trong phòng mình, bà Cavendish lại có mặt trong phòng người chết, lúc báo động xảy ra.

Tôi liếc nhanh về phía Mary. Trông bà rất xanh xao nhưng vẫn tươi cười.

– Tôi sẽ lý giải giả thiết đó – Poirot tiếp – Bà Cavendish có mặt trong phòng bà mẹ chồng, ta hãy cho rằng bà ấy tìm kiếm một thứ gì đó mà chưa thấy. Bất ngờ, bà Inglethorp tỉnh dậy, vì bị một cơn đau dữ dội. Bà vung tay xô ngã chiếc bàn và kéo chuông một cách tuyệt vọng. Bà Cavendish hoảng hốt, làm rớt cây nến, do đó mới có vết sáp vương vãi trên tấm thảm. Bà nhặt lên, vội rút lui về phòng cô Cynthia và đóng cửa lại. Bà vội chạy ra hành lang, vì không nên để đám gia nhân tìm thấy bà ở đó. Muộn mất rồi! Đã có tiếng chân vang lên trong hành lang nối liền hai cánh. Bà có thể làm gì đây? Bà bước nhanh vào phòng cô thiếu nữ và tìm cách đánh thức cô này. Hàng lang đã bị gia nhân và các người khác trong gia đình chiếm giữ. Tất cả mọi người đều dốc sức ra để phá cánh cửa phòng của bà Inglethorp. Không ai có ý nghĩ rằng bà Cavendish không đến cùng lúc với những người khác, nhưng, và điều này rất có ý nghĩa, tôi không thể tỉm được người nào trông thấy bà ấy đến từ cánh bên kia.

Ông nhìn Mary Cavendish.

– Tôi nói như thế có đúng không, thưa bà?

Bà nghiêng đầu.

– Hoàn toàn đúng, thưa ông. Chắc ông cũng hiểu nếu như tôi nghĩ có thể giúp ích được gì cho chồng mình khi tiết lộ những sự kiện trên thì tôi đã không do dự làm chuyện đó. Nhưng tôi thấy chúng chả có liên quan gì đến việc anh ta có tội hay vô tội.

– Trong một chừng mực nào đó thì điều đó đúng, thưa bà, nhưng chúng đã có thể giúp tôi loại trừ được rất nhiều sai lầm trong ý nghĩ và thấy được nhiều điều khác với ý nghĩa thực sự của chúng.

– Thế còn tờ di chúc thì sao? – Laurence kêu lên – Vậy ra, chính chị, chị Mary ạ, chị đã thiêu hủy nó sao?

Bà lắc đầu và Poirot cũng bắt chước.

– Không – ông thản nhiên nói – Chỉ có một người mới có thể thiêu hủy tờ di chúc đó thôi. Đó chính là bà Inglethorp.

– Không thể như thế được! – Tôi phản đối – Bà ta mới chỉ vừa lập nó vào buổi chiều kia mà.

– Tuy nhiên, anh bạn ạ, đúng là bà Inglethorp đã thiêu hủy nó. Nếu không thì anh sẽ không giải thích được tại sao bà Inglethorp ra lệnh đốt lò sưởi trong phòng mình vào một trong những ngày nóng nhất trong năm.

Tôi kêu lên một tiếng khàn đục. Chúng tôi quả là ngu ngốc vì đã không để ý đến chi tiết đó. Poirot lại nói.

– Quý vị hãy nhớ lại, hôm đó nhiệt độ là ba mươi độ trong nhà. Thế mà bà Inglethorp lại đòi đốt lò sưởi. Tại sao vậy? Bởi vì bà muốn hủy cái gì đó mà không thể nghĩ được cách nào khác để thực hiện việc đó. Quý vị cũng biết, do việc tiết kiệm trong thời chiến, ở Styles, không một tờ giấy nào bị vứt bỏ cả. Do đó, không còn cách nào khác để hủy một văn kiện dầy như tờ di chúc. Ngay khi biết được lò sưởi trong phòng bà Inglethorp đã được nhóm, tôi suy ra ngay là để hủy bỏ giấy tờ gì quan trọng, có thể là một tờ di chúc. Bởi vậy việc phát hiện ra mẩu giấy cháy đen không khiến tôi ngạc nhiên. Tất nhiên là vào lúc đó tôi không biết rằng tờ di chúc trên chỉ mới vừa được lập trong buổi chiều thôi, và tôi phải thừa nhận là tôi mắc phải sai lầm lớn khi biết được sự kiện này. Bởi vì tôi đã kết luận bà Inglethorp quyết định hủy bỏ tờ di chúc sau khi cãi vã trong buổi chiều, và do vậy việc cãi vã phải xảy ra sau chứ không phải là trước khi viết di chúc.

Như chúng ta đều biết, về điểm này tôi đã lầm và tôi đã buộc phải từ bỏ ý nghĩ đó ngay. Tôi lại nhìn sự việc dưới một góc độ mới. Lúc mười sáu giờ, Dorcas nghe bà chủ giận dữ bảo: “Đừng tưởng rằng một sự e ngại về một vụ tai tiếng giữa vợ chồng có thể ngăn cản tôi”. Tôi giả sử, và có cơ sở, những lời nói đó dành cho ông John Cavendish chứ không phải cho chồng bà ta. Lúc mười bảy giờ, tức một tiếng đồng hồ sau, bà lại dùng những từ gần giống như thế, nhưng ý của bà thì lại khác. Bà thú nhận với Dorcas: “Tôi không biết phải làm gì nữa! Một vụ tai tiếng giữa vợ chồng thật là một điều khủng khiếp!”. Lúc mười sáu giờ bà giận dữ nhưng rất tự chủ. Đến mười bảy giờ, bà rơi vào sự tuyệt vọng tột cùng và tuyên bố mình đã bị một cú sốc lớn.

Nhìn sự việc dưới góc độ tâm lý học, tôi suy ra một kết luận với tính chính xác thật chắc chắn. “Vụ tai tiếng” thú hai mà bà nói đến không giống như vụ thứ nhất có liên quan đến chính bản thân bà.

Chúng tôi xác lập lại sự việc: lúc mười sáu giờ, bà Inglethorp cãi nhau với con trai và dọa sẽ tố cáo anh ta với vợ, bà này, nhân đây cũng nên nói, bà Dorcas đã nghe thấy phần lớn cuộc đối thoại này. Lúc mười sáu giờ ba mươi, nhân một cuộc đối thoại về giá trị của các tờ di chúc, bà Inglethorp đã lập một tờ di chúc mới thuận lợi cho chồng mình, với chữ ký của hai người làm vườn làm nhân chứng. Lúc mười bảy giờ, Dorcas bắt gặp bà chủ trong trạng thái kích động cực độ và cầm trong tay một tờ giấy, theo Dorcas thì đó là một bức thư. Chính lúc đó bà đã ra lệnh đốt lò sưởi trong phòng mình. Do đó người ta có thể giả định rằng giữa mười sáu giờ ba mươi và mười bảy giờ đã xảy ra chuyện gì đó khiến tình cảm của bà thay đổi, bởi vì lúc bấy giờ bà muốn thiêu hủy tờ di chúc cũng như trước đó đã muốn lập nó. Thế thì chuyện gì đã xảy ra chứ?

Theo những gì chúng ta biết thì bà chỉ ở một mình trong vòng nửa tiếng đồng hồ đó. Không ai bước vào thư phòng và cũng không ai từ đó đi ra cả. Do đâu mà có sự quyết định bất ngờ đó?

Người ta chỉ có thể đặt ra những giả thiết, nhưng tôi cho rằng cái của tôi là lô-gich. Bà Inglethorp không có tem trên bàn giấy. Chúng ta biết điều đó bởi vì sau đó bà đã bảo Dorcas cho người đi mua. Thế nhưng, trong góc phòng đối diện, có chiếc bàn giấy của chồng bà, được khóa lại. Bà rất muốn tìm thấy tem, và theo ý tôi, bà thử mở khóa bằng chìa của mình. Tôi biết rằng có một chiếc mở được. Do vậy, bà mở ngăn tủ ra và trong lúc tìm tem thì bà lại thấy một thứ khác: tờ giấy mà sau đó Dorcas đã nhìn thấy trong tay bà. Và chắc chắn là nó không để dành cho bà đọc. Mặt khác, bà Cavendish lại tin chắc tờ giấy đó là một bằng chứng về sự phản bội của chồng mình. Bà yêu cầu bà Inglethorp đưa lại cho mình nhưng bà này cam đoan, một cách trung thực, văn kiện đó không liên can gì đến bà Cavendish cả. Bà Cavendish nghĩ rằng bà Inglethorp bao che cho con trai mình. Nhưng bà lại là một người rất cương quyết và vẻ kín đáo của bà che giấu sự ghen tuông dữ dội. bà nhất quyết phải lấy cho bằng được tờ giấy đó và đã gặp may. Bà vô tình tìm được chiếc chìa khóa của chiếc rương nhỏ mà bà Inglethorp đã đánh mất ngay trong buổi sáng. Và bà biết rằng bà mẹ chồng luôn luôn giữ những giấy tờ quan trọng của mình trong chiếc rương đó. Bà Cavendish sắp đặt kế hoạch của mình chỉ như một phụ nữ bị lòng ghen tuông dồn đến bước đường cùng có thể làm. Buổi tối, bà mở then cài cánh cửa ăn thông sang phòng cô Cynthia. Có lẽ bà đã cất công tra dầu mỡ vào các bản lề, bởi vì sau đó tôi nhận thấy cánh cửa mở ra mà không gây một tiếng động nào cả. Cẩn thận hơn, bà đợi đến gần sáng để hành động, bởi vì đám gia nhân đã quen nghe thấy bà đi lại trong phòng ngay từ lúc hừng sáng. Bà mặc bộ đồ làm vườn và rất nhẹ nhàng, lẻn vào phòng bà Inglethorp qua ngã phòng của cô Cynthia.

Poirot ngưng lại một lát và Cynthia ngờ vực kêu lên:

– Nhưng tôi sẽ tỉnh giấc ngay nếu như có ai đi lại ngang qua phòng mình.

– Không đâu, nếu như cô bị ngủ mê, thưa cô.

– Ngủ mê ư?

– Vâng! Quý vị có nhớ, cô Cynthia đã ngủ suốt lúc ồn ào trong phòng bên không? Điều này có hai giả thiết: hoặc là giấc ngủ của cô là giả tạo, điều này thì tôi không tin, hoặc là sự hôn mê của cô ta do tác động của những phương pháp nhân tạo.

Bị thúc đẩy bởi linh tính đó, tôi xem xét thật kỹ tất cả những tách cà-phê, nhớ ra chính bà Cavendish, hôm trước, đã mang cà-phê đến cho cô Cynthia. Tôi lấy trong mỗi tách vài giọt cà-phê và đem đi phân tích nhưng không kết quả. Tôi cẩn thận đếm các tách. Ở phòng khách, một số trong chúng đã bị xê dịch. Có sáu người đã dùng cà-phê, và quả là tôi đã tìm thấy sáu cái tách. Tôi đành phải nhìn nhận sai lầm của mình.

Rồi tôi phát hiện ra mình đã có thiếu sót lớn. Người ta đã phục vụ cà-phê cho bảy người chứ không phải là sáu, bởi vì bác sĩ Bauerstein đã đến chơi trong buổi tối. Điều này làm thay đổi hẳn cục diện của vấn đề, bởi vì giờ đây đã thiếu mất một cái tách. Đám gia nhân không nhận thấy điều gì cả, bởi vì Annie, người hầu phòng đem cà-phê đến, không biết rằng ông Inglethorp không bao giờ dùng cà-phê cả, còn Dorcas, người dọn tách vào sáng hôm sau, đã tìm thấy sáu cái tách như mọi khi, hay nói đúng hơn là bà đã tìm thấy năm cái, cái thứ sáu là cái được tìm thấy trong phòng bà Inglethorp, bị vỡ vụn.

Tôi tin chắc cái tách thiếu là cái của cô Cynthia. Và lòng tin của tôi được củng cố bởi sự kiện là trong tất cả các tách tìm thấy ở dưới nhà đều có đường, trong khi cô Cynthia không bao giờ dùng cà-phê với đường cả. Câu chuyện của Annie về “chất muối” tìm thấy trên chiếc khay đựng ca-cao mà mỗi tối cô đem lên phòng bà Inglethorp khiến tôi chú ý. Do đó tôi lấy mẩu chất ca-cao đó và đem đi cho phân tích.

– Nhưng ông bác sĩ đã làm việc đó rồi kia mà – Laurence kêu lên.

– Không hẳn là như thế. Ông ta chỉ yêu cầu kiểm tra xem ca-cao có chứa Strychnin hay không thôi. Nhưng ông đã không cho phân tích như tôi đây, để tìm ra chất thuốc ngủ.

– Để tìm thuốc ngủ ư?

– Phải. Đây là báo cáo của nhà hóa học. Bà Cavendish đã cho bà Inglethorp và cô Cynthia dùng một thứ thuốc ngủ hoàn toàn vô hại nhưng mạnh. Và rất có thể là bà ấy đã phải trải qua một phen thất kinh. Hãy tưởng tượng xúc cảm của bà ta khi bà mẹ chồng bỗng bị đau mà chết đi, ngay sau đó bà nghe nói đến từ “độc dược” quanh mình. Thế mà bà cứ ngỡ rằng thuốc ngủ hoàn toàn vô hại. Chắc chắn trong một lúc hãi hùng, bà lo ngại rằng mình đã là thủ phạm về cái chết của bà Inglethorp. Bà sợ hãi lao vội xuống nhà, bỏ chiếc tách cà-phê và đĩa của cô Cynthia vào một chiếc độc bình bằng đồng, nơi sau này ông Laurence tìm thấy chúng. Bà không dám đụng đến phần ca-cao còn lại bởi vì có quá nhiều cặp mắt hướng về phía mình. Hãy nghĩ đến sự nhẹ nhõm khi nghe người ta nói về Strychnin, thế là bà phát hiện ra, dù sao đi nữa thì mình cũng không phải chịu trách nhiệm về tấn thảm kịch.

Bây giờ thì chúng ta có thể giải thích được tại sao những triệu chứng ngộ độc do Strychnin gây ra lại bộc lộ chậm đến như vậy. Chất thuốc ngủ được uống cùng với Strychnin sẽ làm chậm đi tác dụng của độc dược trong vài giờ.

Poirot ngừng lại. Mary đỏ mặt nhìn ông.

– Tất cả những gì ông nói đều hoàn toán chính xác, ông Poirot ạ. Đó là giây phút khủng khiếp nhất trong đời tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên được. Nhưng ông thật là đáng kinh ngạc. Bây giờ thì tôi hiểu…

– … tôi muốn nói gì khi tôi khẳng định bà có thể thú tội mà không sợ bị nguy hiểm với pông Poirot chứ gì? Nhưng bà lại không dám đặt lòng tin vào tôi.

– Bây giờ thì tôi thấy rõ rồi – Laurence nói – Chất thuốc ngủ trong ca-cao đã làm chậm đi tác dụng của độc dược bỏ trong cà-phê.

– Đúng vậy. Nhưng trong cà-phê có độc dược hay không? Ở đây chúng ta đứng trước một khó khăn nhỏ, bởi vì bà Inglethorp không hề uống cà-phê.

– Sao?

Mọi người đều ngạc nhiên kêu lên.

– Vâng. Quý vị có nhớ, tôi đã nói đến một vết bẩn trên tấm thảm trong phòng bà Inglethorp không? Vết bẩn đó có vài đặc điểm riêng. Nó còn ẩm ướt, nó hắt ra một mùi cà phê nồng và, cắm sâu trong chất len của tấm thảm, tôi tìm thấy vài mảnh sành. Tôi hiểu ngay những gì đã xảy ra, bởi vì, không đầy hai phút trước đó, tôi đặt chiếc ví của mình lên chiếc bàn ghê gần cửa sổ và, do bị khập khiễng, nó đã hất chiếc ví xuống đất, đúng vào chỗ có vết bẩn. Hôm trước, khi về phòng, có lẽ bà Inglethorp cũng đã đặt tách cà-phê lên bàn và cũng bị một vố y như vậy.

Tôi không thể đoán được điều gì xảy ra sau đó, nhưng tôi cho rằng bà Inglethorp đã nhặt chiếc tách vỡ và đặt lên bàn kê cạnh giường. Cảm thấy cần chất bổ dưỡng, bà hâm ca-cao và uống liền tức khắc. Thế nhưng qua sự kiện đó, chúng ta lại đứng trước một vấn đề mới. Chúng ta biết rằng ca-cao không chứa Strychnin. Thế mà chất Strychnin phải được hấp thu vào giữa mười chín và hai mươi mốt giờ.

Nhưng vấn đề vẫn còn y nguyên: Strychnin được hấp thụ bằng cách nào để cho vị đắng của nó không bị nạn nhân phát hiện?

Poirot nhìn quan rồi tự trả lời một cách đắc thắng:

– Chai thuốc của bà ấy!

– Ông muốn nói rằng thủ phạm đã bỏ Strychnin vào chai thuốc bổ của bà ấy sao? – Tôi kêu lên.

– Hắn không cần phải bỏ vào, bởi vì trong đó đã có sẵn rồi. Chất Strychnin đã giết hại bà Inglethorp chính là thứ đã được bác sĩ Wilkins kê toa. Để làm sáng tỏ vấn đề này, tôi sẽ đọc cho quý vị một đoạn trích từ một cuốn sách về cách pha chế các loại thuốc mà tôi đã tìm thấy trong bệnh xá của Hội Chữ Thập Đỏ ở Tadminsters.

Công thức sau đây đã nổi tiếng trong các sách vở:

Sun-phát Strychnin…. …… …… …… 5 centigram

Brô-mua Pôtassium…. …… …… ….. 18 gam

Nước cất…. …… …… …… …… … 25 gam Hỗn hợp này trong vài giờ làm lắng phần muối Strychnin dưới dạng những hạt Brô-mua trong và không hòa tan. Một phụ nữ, ở Anh, đã chết sau khi uống thứ hỗn hợp tương tự này. Chất Strychnin lắng xuống đáy chai và, bằng cách đó, người bệnh uống gần như là cả lượng độc dược trong chai khi dùng liều cuối cùng.

Thế nhưng, trong toa thuốc của bác sĩ Wilkins tất nhiên là không có Brô-mua, nhưng quý vị cũng nhớ cho tôi đã nói đến một hộp Brô-mua trống. Một hoặc hai nhúm bột đó bỏ vào chai thuốc cũng đủ để làm cho chất Strychnin lắng xuống, và như thế nó sẽ được hấp thu trọn vẹn trong liều thuốc cuối cùng. Sau đây quý vị sẽ được biết rằng người rót thuốc cho bà Inglethorp đã luôn luôn cẩn thận không lắc chai thuốc, hầu đừng làm hòa tan chất lắng đóng dưới đáy chai.

Trong quá trình điều tra, tôi đã có được những bằng chứng cho thấy mọi việc được sắp xếp để cho thảm kịch xảy ra vào tối hôm thứ hai. Hôm đó, dây chuông của bà Inglethorp bị cắt đứt, còn cô Cynthia thì ngủ lại tại nhà bạn, do đó bà Inglethorp sẽ chỉ có một thân một mình bên cánh trái, hoàn toàn cách biệt khỏi mọi sự giúp đỡ và có lẽ bà ấy sẽ chết trước khi người ta kịp gọi bác sĩ. Nhưng trong lúc vội đi dự lễ trong làng, bà Inglethorp đã quên uống thuốc và hôm sau thì bà ăn bữa trưa tại nhà bạn bè. Như vậy, liều thuốc cuối cùng, liều thuốc định mệnh, chỉ được uống muộn hơn sự tiên liệu của kẻ giết người là hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Và chính nhờ vào kỳ hạn này mà bằng chứng chung cuộc, chiếc mắt xích cuối cùng, mới lọt vào tay tôi.

Thế rồi, giữa một sự im lặng đầy căng thẳng, Poirot cho chúng tôi xem ba mảnh băng giấy.

– Các bạn ạ, đây là một bức thư do chính tên giết người viết. Nếu như lời lẽ trong bức thư đó rõ ràng hơn thì có thể bà Inglethorp đã được báo động kịp thời và đã thoát chết. Nhưng mặc dù ý thức được mình đang bị sự nguy hiểm đe dọa, bà vẫn không hiểu được thực chất của sự đe dọa đó.

Giữa sự im lặng như tờ, Poirot nối các mảnh giấy lại, và sau khi khẽ tằng hắng, ông đọc:

“Evelyn thân yêu,

Em sẽ rất lo lắng vì không nhận được tin tức. Tất cả đều tốt đẹp, nhưng sẽ là tối nay cơ, thay vì là hôm qua. Một cuộc đời mới đang chờ đợi chúng ta, khi bà già ấy chết. Không ai có thể gán cho tôi tội ác đó. Em đã có sáng kiến hay khi đề nghị dùng bột Brô-mua. Nhưng chúng ta phải thận trọng, một cái sẩy chân…”

– Bức thư dừng ở đây, thưa các bạn. Có lẽ tác giả đã bị gián đoạn trong lúc viết. Nhưng không còn lạ gì về tung tích của hắn nữa. Tất cả chúng ta đều biết chữ viết này và…

Một tiếng kêu giống hệt một tiếng hét xé tan sự im lặng.

– Đồ quỷ sứ! Làm thế nào mà ông lấy được bức thư đó?

Cò một chiếc ghế đổ, Poirot nhẹ nhàng nhảy sang một bên và bằng cử chỉ nhanh nhẹn, quật ngã địch thủ.

– Thưa quý ông, quý bà – Poirot nói với vẻ đắc thắng – cho phép tôi giới thiệu với quý vị tên giết người, ông Alfred Inglethorp!


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.